Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10

Đánh giá post

Bài học Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính mỗi ngày

Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10 là bài giảng tiếp theo của Thầy Vũ trên kênh dạy học tiếng Trung online uy tín ChineMaster. Bài giảng sẽ được đăng mỗi ngày trên kênh Luyện thi HSK,các bạn đừng quên lưu về học dần nhé

Sau đây là Chuyên mục Luyện gõ tiếng Trung tổng hợp tất cả những bài giảng đã được đăng tải về cách gõ tiếng Trung sogou pinyin trên máy tính để xem lại nhé

Luyện gõ tiếng Trung Sogou Pinyin trên máy tính

Bạn nào muốn học tiếng trung tại Trung tâm tiếng Trung ChineMaster  thì có 1 tin rất vui là đã có Cơ sở 2 tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh. Các bạn xem thông tin chi tiết lịch khai giảng mới nhất ở Hà Nội và TP HCM tại link bên dưới nhé.

Lịch học chi tiết lớp giao tiếp tiếng Trung tại Hà Nội

Đăng ký khóa học tiếng Trung  tại Hà Nội

Lịch học chi tiết lớp giao tiếp tiếng Trung tại quận 10 TPHCM

Đăng ký  khóa học tiếng Trung tại Quận 10 TP HCM

Bạn nào không có hoặc không đủ điều kiện học trực tuyến thì hãy đăng kí học online qua skype tại link sau nhé.

Lớp học tiếng Trung online qua Skype Thầy Vũ

Dưới đây là cách tải và cũng như là cách sử dụng bộ gõ tiếng Trung SoGou PinYin do Thạc sĩ Nguyễn Minh Vũ soạn thảo,các bạn hãy lưu về để xem dần nhé,các bạn xem chi tiết tại link dưới đây nhé.

Download bộ gõ tiếng Trung sogou pinyin cùng Thầy Vũ 

Khóa học dành cho những bạn có nhu cầu tìm hiểu cũng như buôn bán hàng Trung Quốc online,Thầy Vũ đã dành riêng cho các bạn một khóa học nhập hàng Trung Quốc tận gốc Taobao đầy đủ miễn phí rất hấp dẫn

Khóa học nhập hàng Trung Quốc tận gốc taobao tmall

Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10 Thầy Vũ ChineMaster

Nội dung chi tiết buổi học hôm nay Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10

失去了自然栖息地和食物来源的丹顶鹤不再称呼越南湄公河三角洲家园的国家公园。

三十年来,位于同塔省同塔木井芦苇丛中的电车国家公园一直是大型东亚丹顶鹤的自然栖息地,在世界上最为罕见,并被列为“濒危”。国际自然保护联盟濒危物种红色名录。

起重机通常在越南南部的旱季12月至5月降落在公园上,以便在雨季和多洪天气开始之前进行觅食和交配。

但是近年来,这个故事发生了变化。

根据越南世界自然基金会的报告,如果1998年有1000多只丹顶鹤到达公园,则这一数字在2015年降至21只,2016年为14只,2017年为9只,而在2008年分别为11只。 2018年和去年

在今年的旱季,公园内没有发现起重机。

一切如何开始

该公园的科学与国际合作负责人Nguyen Hoang Minh Hai表示,目前尚不清楚何时丹顶鹤首次到达公园及其附近的城镇,并以此命名。

可以肯定的是,到1986年,当地的羊群每年增加到1000多只。

该公园占地7500公顷(18,532英亩),分为五个不同的区域,其中一个区域为丹顶鹤提供食物。

除起重机外,建于1998年的公园还拥有230种鸟类,130种鱼类和130种植物。

2012年,它被《拉姆萨尔公约》(Ramsar Convention)确认为具有国际重要性的湿地,在越南排名第四,在世界排名第二千。该公约是一项政府间条约,为在保护和合理利用湿地及其资源方面的国家行动和国际合作提供了框架。

为什么会崩溃

根据《国家地理杂志》的报道,丹顶鹤是世界上第二只稀有起重机,仅次于北美的百搭起重机。

它是一种濒临灭绝的物种,在世界上只有1830只成年动物在下降,最明显的原因是栖息地的丧失,因为他们的湿地繁殖地正在缩小,无法维持该物种。

海在公园里说,丹顶鹤以洪水后剩下的资源为食,包括蜗牛,鱼,螃蟹,老鼠,尤其是water,一种在沼泽,水下和泥土中生长的水生蔬菜。

起重机通常在移居到柬埔寨生子之前先在越南交配。他补充说,他们是在三到四口之家的家庭中发现的,年轻人通常以一岁或1.5岁的年龄离开父母,直到40岁为止。

但是近年来,越南的湄公河三角洲并没有发生年度洪水。通常,洪水会在7月下旬或8月初袭击,并持续到11月甚至更晚,才能使该地区拥有非凡的肥力,因为它们通常从上游地区沉积淤泥。

此外,当地农民一直在侵占绿地上种植水稻,从而减少了菱角的供应。

越南国立大学HCMC理科大学湿地研究中心副主任Nguyen Hoai Bao表示,近年来越南和柬埔寨下游地区的丹顶鹤数量急剧下降。

根据国际起重机基金会(ICF)的数据,早在1990年,该地区约有1100头起重机,而2002年该群鸡仍保持在900只左右,而到2013年下降到850只左右。

从2014年到2019年,它下降了72%,仅为234个,估计今年只有179个。

在越南,今年到目前为止,还没有起重机停下来,只有七台起重机经过了坚江省南部。

湿地研究部的鲍说,除了缺乏食物来源外,失去繁殖地也是越南没有丹顶鹤的另一个原因。在柬埔寨东北部,生下的干燥龙脑香树林也被完全摧毁。

他说,与此同时,湄公河三角洲的天然湿地以及东南亚最大的淡水湖体柬埔寨洞里萨湖的周围地区,都已被利用来为农业或相关发展服务。

他说,多作水稻的种植,每年只有三种作物,而不是过去二十年的两季,水文状况的急剧变化和农业用化学物质的过度使用破坏了生态系统,使起重机没有壮成长的机会。避难所管理不善是起重机失踪的另一个原因。

在缅甸等其他国家,由于伊洛瓦底江三角洲的农业得到充分发展,每年仅种植一到两种水稻,近年来,丹顶鹤使该地区成为新家。据ICF称,去年该地区发现了约400只起重机。

在泰国,丹顶鹤在1980年代被宣布灭绝,但在2011年,泰国发起了一个大规模繁殖它们的项目,以释放回自然。由于这个项目,该国现在约有100只丹顶鹤可以繁殖。

鲍说,越南起重机的保护已经进入脆弱的阶段,但该中心仍可能改变其对生态系统进行适当管理的方法。

他强调说:“如果要在越南野外灭绝丹顶鹤,重要的是要从重建泰国这样的栖息地的经验中学习。”

现年70岁的Nguyen Van Nieu终生居住在电车国家公园附近,他说自己不是专家,他无话可说以预测这里的丹顶鹤的未来。

他是一位40多年前的士兵,他回忆说自己和他的战友曾经在一个清晨遇到困惑,当时他遇到数千只丹顶鹤,这些丹顶鹤通常高5英尺,翼展高达8英尺,重于7至15公斤。那天,他和其他人几乎失去了理智,以为他们与敌军面对面了。

如今,作为当地居民,Nieu表示,他肯定知道一件事,那就是“一切都在变得更糟”,而湄公河三角洲的本土物种正在灭绝。

但是他仍然寄希望于可能性,“在未来的五到十年中,我的孙子们可能会再次看到成群的丹顶鹤返回电车,去觅食water,而不是去了解这里曾经发生的事情。他用妻子的绣花挥舞着一个飞起来的起重机家庭。

Phiên âm tiếng Trung bài học Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10

Shīqùle zìrán qīxī dì hé shíwù láiyuán de dāndǐnghè bù zài chēnghu yuènán méigōnghé sānjiǎozhōu jiāyuán de guójiā gōngyuán.

Sānshí niánlái, wèiyú tóng tǎ shěng tóng tǎ mù jǐng lúwěi cóng zhōng de diànchē guójiā gōngyuán yīzhí shì dàxíng dōngyà dāndǐnghè de zìrán qīxī dì, zài shìjiè shàng zuìwéi hǎnjiàn, bìng bèi liè wèi “bīnwēi”. Guójì zìrán bǎohù liánméng bīnwēi wùzhǒng hóngsè mínglù.

Qǐzhòngjī tōngcháng zài yuènán nánbù de hànjì 12 yuè zhì 5 yuè jiàngluò zài gōngyuán shàng, yǐbiàn zài yǔjì hé duō hóng tiānqì kāishǐ zhīqián jìnxíng mì shí hé jiāopèi.

Dànshì jìnnián lái, zhège gùshì fāshēngle biànhuà.

Gēnjù yuènán shìjiè zìrán jījīn huì de bàogào, rúguǒ 1998 nián yǒu 1000 duō zhǐ dāndǐnghè dàodá gōngyuán, zé zhè yī shǔ zì zài 2015 nián jiàng zhì 21 zhǐ,2016 nián wèi 14 zhǐ,2017 nián wèi 9 zhǐ, ér zài 2008 nián fēnbié wèi 11 zhǐ. 2018 Nián hé qùnián

zài jīnnián de hànjì, gōngyuán nèi méiyǒu fāxiàn qǐzhòngjī.

Yīqiè rúhé kāishǐ

gāi gōngyuán de kēxué yǔ guójì hézuò fùzé rén Nguyen Hoang Minh Hai biǎoshì, mùqián shàng bù qīngchǔ hé shí dāndǐnghè shǒucì dàodá gōngyuán jí qí fùjìn de chéngzhèn, bìng yǐ cǐ mìngmíng.

Kěyǐ kěndìng de shì, dào 1986 nián, dāngdì de yáng qún měinián zēngjiā dào 1000 duō zhǐ.

Gāi gōngyuán zhàn de 7500 gōngqīng (18,532 yīngmǔ), fēn wéi wǔ gè bùtóng de qūyù, qízhōng yīgè qūyù wèi dāndǐnghè tígōng shíwù.

Chú qǐzhòngjī wài, jiàn yú 1998 nián de gōngyuán hái yǒngyǒu 230 zhǒng niǎo lèi,130 zhǒng yú lèi hé 130 zhòngzhíwù.

2012 Nián, tā bèi “lā mǔ sà ěr gōngyuē”(Ramsar Convention) quèrèn wéi jùyǒu guójì zhòngyào xìng de shīdì, zài yuènán páimíng dì sì, zài shìjiè páimíng dì èrqiān. Gāi gōngyuē shì yī xiàng zhèngfǔ jiān tiáoyuē, wèi zài bǎohù hé hélǐ lìyòng shīdì jí qí zīyuán fāngmiàn de guójiā xíngdòng hé guójì hézuò tígōngle kuàngjià.

Wèishéme huì bēngkuì

gēnjù “guójiā dìlǐ zázhì” de bàodào, dāndǐnghè shì shìjiè shàng dì èr zhǐ xīyǒu qǐzhòngjī, jǐn cì yú běiměi de bǎi dā qǐzhòngjī.

Tā shì yī zhǒng bīnlín mièjué de wùzhǒng, zài shìjiè shàng zhǐyǒu 1830 zhǐ chéngnián dòngwù zài xiàjiàng, zuì míngxiǎn de yuányīn shì qīxī dì de sàngshī, yīnwèi tāmen de shīdì fánzhí de zhèngzài suōxiǎo, wúfǎ wéichí gāi wùzhǒng.

Hǎi zài gōngyuán lǐ shuō, dāndǐnghè yǐ hóngshuǐ hòu shèng xià de zīyuán wèi shí, bāokuò wōniú, yú, pángxiè, lǎoshǔ, yóuqí shì water, yī zhǒng zài zhǎozé, shuǐ xià hé nítǔ zhōng shēngzhǎng de shuǐshēng shūcài.

Qǐzhòngjī tōngcháng zài yíjū dào jiǎnpǔzhài shēngzǐ zhīqián xiān zài yuènán jiāopèi. Tā bǔchōng shuō, tāmen shì zài sān dào sì kǒu zhī jiā de jiātíng zhōng fāxiàn de, niánqīng rén tōngcháng yǐ yī suì huò 1.5 Suì de niánlíng líkāi fùmǔ, zhídào 40 suì wéizhǐ.

Dànshì jìnnián lái, yuènán de méigōnghé sānjiǎozhōu bìng méiyǒu fāshēng niándù hóngshuǐ. Tōngcháng, hóngshuǐ huì zài 7 yuè xiàxún huò 8 yuèchū xíjí, bìng chíxù dào 11 yuè shènzhì gèng wǎn, cáinéng shǐ gāi dìqū yǒngyǒu fēifán de féilì, yīnwèi tāmen tōngcháng cóng shàngyóu dìqū chénjī yūní.

Cǐwài, dāngdì nóngmín yīzhí zài qīnzhàn lǜdì shàng zhòngzhí shuǐdào, cóng’ér jiǎnshǎole língjiǎo de gōngyìng.

Yuènán guólì dàxué HCMC lǐkē dàxué shīdì yánjiū zhōngxīn fù zhǔrèn Nguyen Hoai Bao biǎoshì, jìnnián lái yuènán hé jiǎnpǔzhài xiàyóu dìqū de dāndǐnghè shùliàng jíjù xiàjiàng.

Gēnjù guójì qǐzhòngjī jījīn huì (ICF) de shùjù, zǎo zài 1990 nián, gāi dìqū yuē yǒu 1100 tóu qǐzhòngjī, ér 2002 nián gāi qún jī réng bǎochí zài 900 zhǐ zuǒyòu, ér dào 2013 nián xia jiàng dào 850 zhǐ zuǒyòu.

Cóng 2014 nián dào 2019 nián, tā xiàjiàng le 72%, jǐn wèi 234 gè, gūjì jīnnián zhǐyǒu 179 gè.

Zài yuènán, jīnnián dào mùqián wéizhǐ, hái méiyǒu qǐzhòngjī tíng xiàlái, zhǐyǒu qī tái qǐzhòngjī jīngguòle jiān jiāng shěng nánbù.

Shīdì yánjiū bù de bào shuō, chúle quēfá shíwù láiyuán wài, shīqù fánzhí de yěshì yuènán méiyǒu dāndǐnghè de lìng yīgèyuányīn. Zài jiǎnpǔzhài dōngběi bù, shēng xià de gānzào lóng nǎo xiāng shùlín yě bèi wánquán cuīhuǐ.

Tā shuō, yǔ cǐ tóngshí, méigōnghé sānjiǎozhōu de tiānrán shīdì yǐjí dōngnányà zuìdà de dànshuǐ hú tǐ jiǎnpǔzhài dòng lǐ sà hú de zhōuwéi dìqū, dōu yǐ bèi lìyòng lái wèi nóngyè huò xiāngguān fāzhǎn fúwù.

Tā shuō, duō zuò shuǐdào de zhòng zhí, měinián zhǐyǒu sān zhǒng zuòwù, ér bùshì guòqù èrshí nián de liǎng jì, shuǐwén zhuàngkuàng de jíjù biànhuà hé nóngyè yòng huàxué wùzhí de guòdù shǐyòng pòhuàile shēngtài xìtǒng, shǐ qǐzhòngjī méiyǒu zhuàng chéngzhǎng de jīhuì. Bìnàn suǒ guǎnlǐ bùshàn shì qǐzhòngjī shīzōng de lìng yīgè yuányīn.

Zài miǎndiàn děng qítā guójiā, yóuyú yīluòwǎdǐjiāng sānjiǎozhōu de nóngyè dédào chōngfèn fāzhǎn, měinián jǐn zhòngzhí yī dào liǎng zhǒng shuǐdào, jìnnián lái, dāndǐnghè shǐ gāi dìqū chéngwéi xīnjiā. Jù ICF chēng, qùnián gāi dìqū fāxiànle yuē 400 zhǐ qǐ zhòngjī.

Zài tàiguó, dāndǐnghè zài 1980 niándài bèi xuānbù mièjué, dàn zài 2011 nián, tàiguó fāqǐle yīgè dà guīmó fánzhí tāmen de xiàngmù, yǐ shìfàng huí zìrán. Yóuyú zhège xiàngmù, gāi guó xiànzài yuē yǒu 100 zhǐ dāndǐnghè kěyǐ fánzhí.

Bào shuō, yuènán qǐzhòngjī de bǎohù yǐjīng jìnrù cuìruò de jiēduàn, dàn gāi zhōngxīn réng kěnéng gǎibiàn qí duì shēngtài xìtǒng jìnxíng shìdàng guǎnlǐ de fāngfǎ.

Tā qiángdiào shuō:“Rúguǒ yào zài yuènán yěwài mièjué dāndǐnghè, zhòngyào de shì yào cóng chóngjiàn tàiguó zhèyàng de qīxī dì de jīngyàn zhōng xuéxí.”

Xiànnián 70 suì de Nguyen Van Nieu zhōngshēng jūzhù zài diànchē guójiā gōngyuán fùjìn, tā shuō zìjǐ bùshì zhuānjiā, tā wú huà kě shuō yǐ yùcè zhèlǐ de dāndǐnghè de wèilái.

Tā shì yī wèi 40 duōnián qián dí shìbīng, tā huíyì shuō zìjǐ hé tā de zhànyǒu céngjīng zài yīgè qīngchén yù dào kùnhuò, dāngshí tā yù dào shù qiān zhǐ dāndǐnghè, zhèxiē dāndǐnghè tōngcháng gāo 5 yīngchǐ, yì zhǎn gāodá 8 yīngchǐ, zhòng yú 7 zhì 15 gōngjīn. Nèitiān, tā hé qítā rén jīhū shīqùle lǐzhì, yǐwéi tāmen yǔ dí jūn miànduìmiànle.

Rújīn, zuòwéi dāngdì jūmín,Nieu biǎoshì, tā kěndìng zhīdào yī jiàn shì, nà jiùshì “yīqiè dōu zài biàn dé gèng zāo”, ér méigōnghé sānjiǎozhōu de běntǔ wùzhǒng zhèngzài mièjué.

Dànshì tā réngrán jì xīwàng yú kěnéng xìng,“zài wèilái de wǔ dào shí nián zhōng, wǒ de sūnzimen kěnéng huì zàicì kàn dào chéng qún de dāndǐnghè fǎnhuí diànchē, qù mì shí water, ér bùshì qù liǎojiě zhèlǐ céngjīng fāshēng de shìqíng. Tā yòng qīzi de xiùhuā huīwǔzhe yīgè fēi qǐlái de qǐzhòngjī jiātíng.

Bản dịch tiếng Trung sang tiếng Việt Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10

Mất môi trường sống tự nhiên và nguồn thức ăn, sếu đầu đỏ không còn gọi là vườn quốc gia ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Từ ba thập kỷ nay, Vườn quốc gia Tràm Chim trên cánh đồng lau sậy Đồng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp đã nổi tiếng là nơi sinh sống tự nhiên của loài sếu đầu đỏ Đông Á, thuộc loại quý hiếm nhất trên thế giới và được xếp vào loại “có nguy cơ tuyệt chủng”. Danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế về các loài bị đe dọa.

Sếu thường xuống công viên từ tháng 12 đến tháng 5, mùa khô của miền nam Việt Nam, để kiếm ăn và giao phối trước khi thời tiết mưa lũ bắt đầu.

Nhưng những năm gần đây, câu chuyện đã thay đổi.

Theo báo cáo của World Wide Fund for Nature Vietnam, nếu có hơn 1.000 con sếu đầu đỏ đến công viên vào năm 1998, thì con số này đã giảm xuống chỉ còn 21 con vào năm 2015, 14 con vào năm 2016, 9 con vào năm 2017 và 11 con mỗi con ở 2018 và năm ngoái.

Trong mùa khô năm nay, không có sếu nào được phát hiện trong công viên.

Tất cả bắt đầu như thế nào

Ông Nguyễn Hoàng Minh Hải, trưởng phòng khoa học và hợp tác quốc tế của công viên, cho biết không rõ sếu đầu đỏ đến công viên và thị trấn gần đó từ khi nào, sau đó nó được đặt tên như thế nào.

Điều chắc chắn là vào năm 1986, đàn gia cầm tại địa phương đã tăng lên hơn 1.000 con mỗi năm.

Trải rộng trên 7.500 ha (18.532 mẫu Anh), công viên được chia thành năm khu khác nhau, với một khu cung cấp thức ăn cho sếu đầu đỏ.

Ngoài sếu, công viên được thành lập năm 1998 còn có 230 loài chim, 130 loài cá và 130 loài thực vật.

Năm 2012, được Công ước Ramsar công nhận là vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, thứ 4 ở Việt Nam và thứ 2.000 trên thế giới. Công ước là một hiệp ước liên chính phủ cung cấp khuôn khổ cho hành động quốc gia và hợp tác quốc tế trong việc bảo tồn và sử dụng khôn ngoan các vùng đất ngập nước và các nguồn tài nguyên của chúng.

Tại sao nó lại sụp đổ

Theo National Geographic, sếu đầu đỏ là loài sếu hiếm thứ hai trên thế giới – chỉ đứng sau sếu lông ở Bắc Mỹ.

Nó là một loài có nguy cơ tuyệt chủng, chỉ còn 1.830 con trưởng thành trên thế giới và đang giảm dần, lý do rõ ràng nhất là mất môi trường sống vì các khu đất sinh sản của chúng bị thu hẹp và không thể duy trì loài, nó cho biết.

Ông Hải ở công viên cho biết sếu đầu đỏ ăn các nguồn thức ăn còn sót lại sau mùa lũ, bao gồm ốc, cá, cua, chuột và đặc biệt là hạt dẻ nước, một loại rau thủy sinh mọc ở đầm lầy, dưới nước và trong bùn.

Sếu thường đến giao phối ở Việt Nam trước khi chuyển sang Campuchia để sinh nở. Họ được tìm thấy trong các gia đình có ba bốn thành viên, với những người trẻ thường rời bỏ cha mẹ của họ ở tuổi một hoặc 1,5 để sống cho đến năm 40, ông nói thêm.

Nhưng những năm gần đây, lũ lụt hàng năm của đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam không xảy ra. Thông thường, lũ lụt sẽ ập đến vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 và kéo dài đến tháng 11 hoặc thậm chí muộn hơn để ban phước cho khu vực này với độ phì nhiêu bất thường vì chúng thường tích tụ phù sa từ các khu vực thượng nguồn.

Bên cạnh đó, nông dân địa phương đã lấn chiếm đất công viên để trồng lúa, làm giảm nguồn cung cấp hạt dẻ nước.

Ông Nguyễn Hoài Bảo, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đất ngập nước thuộc Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM, cho biết số lượng sếu đầu đỏ ở vùng hạ lưu của Việt Nam và Campuchia đã giảm mạnh trong những năm gần đây.

Theo Tổ chức Sếu quốc tế (ICF), có khoảng 1.100 con sếu ở khu vực này vào năm 1990, với số lượng đàn còn lại khoảng 900 con vào năm 2002 trước khi giảm xuống còn khoảng 850 con vào năm 2013.

Từ năm 2014 đến 2019, nó đã giảm 72% xuống chỉ còn 234, và ước tính chỉ còn 179 trong năm nay.

Tại Việt Nam, không có sếu nào dừng lại trong năm nay, chỉ có 7 con sếu đi qua tỉnh Kiên Giang phía nam.

Bảo của Phòng Nghiên cứu Đất ngập nước cho biết ngoài việc thiếu nguồn thức ăn, mất môi trường sinh sản là một nguyên nhân khác khiến sếu đầu đỏ ở Việt Nam vắng bóng. Những khu rừng khộp khô hạn nơi chúng sinh đẻ cũng đã bị phá hủy hoàn toàn ở đông bắc Campuchia.

Trong khi đó, các vùng đất ngập nước tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long và khu vực xung quanh Hồ Tonle Sap của Campuchia, vùng nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á, đều đã được khai thác để phục vụ nông nghiệp hoặc phát triển liên quan, ông nói.

Ông cho biết thêm, canh tác lúa nhiều vụ, ba vụ mỗi năm thay vì hai vụ như trong hai thập kỷ qua, sự thay đổi mạnh mẽ của chế độ thủy văn và việc lạm dụng hóa chất cho mục đích nông nghiệp đã phá vỡ hệ sinh thái, khiến sếu không còn cơ hội phát triển. Việc quản lý khu bảo tồn không đúng cách là một lý do khác đằng sau sự biến mất của sếu.

Ở các nước khác như Myanmar, nhờ sự phát triển đầy đủ của nền nông nghiệp ở Đồng bằng sông Ayeyarwady với chỉ một hoặc hai vụ lúa mỗi năm, sếu đầu đỏ trong những năm gần đây đã biến khu vực này trở thành quê hương mới. Năm ngoái, một quần thể khoảng 400 con sếu đã được phát hiện sống trong khu vực, theo ICF.

Ở Thái Lan, sếu đầu đỏ đã bị tuyên bố tuyệt chủng vào những năm 1980 nhưng đến năm 2011, quốc gia này đã khởi động một dự án nhân giống chúng trên quy mô lớn để thả trở lại tự nhiên. Nhờ dự án này, khoảng 100 con sếu đầu đỏ hiện đã có mặt trên cả nước và có thể sinh sản.

Ông Bảo cho biết việc bảo tồn sếu ở Việt Nam đã bước vào giai đoạn mong manh, nhưng các trung tâm vẫn có thể thay đổi cách tiếp cận để quản lý hệ sinh thái phù hợp.

Ông nhấn mạnh: “Trong trường hợp sếu đầu đỏ tuyệt chủng trong tự nhiên ở Việt Nam, điều quan trọng là phải rút kinh nghiệm trong việc tái tạo môi trường sống như những gì Thái Lan đã làm”.

Ông Nguyễn Văn Niêu, 70 tuổi, sống gần Vườn quốc gia Tràm Chim, cho biết ông không phải là chuyên gia và không thể nói trước được tương lai của sếu đầu đỏ ở đây.

Một người lính cách đây hơn 40 năm kể lại, ông và đồng đội đã từng bối rối vào một buổi sáng sớm khi chạm trán với hàng nghìn con sếu đầu đỏ, thường cao 5 feet, sải cánh dài tới 8 feet, nặng từ bảy đến 15 ký. Hôm đó, anh và những người khác gần như mất trí, tưởng mình đã giáp mặt với quân địch.

Những ngày này, với tư cách là một người dân địa phương, Nieu cho biết anh biết chắc một điều, đó là “mọi thứ đang thay đổi theo chiều hướng xấu hơn”, và các loài cá bản địa ở ĐBSCL đang ngày càng tuyệt chủng.

Nhưng ông vẫn nuôi hy vọng vào khả năng “trong năm, mười năm nữa, bà cháu tôi có thể một lần nữa được chứng kiến đàn sếu đầu đỏ quay về Tràm Chim kiếm hạt dẻ nước, thay vì tìm hiểu về những gì đã từng xảy ra ở đây. từ những con sếu này, ”ông nói, vẫy tay trước bức tranh thêu do vợ ông làm, về một gia đình sếu bay lên.

Trên đây là nội dung chi tiết của bài giảng Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10 ngày hôm nay,các bạn đừng quên lưu bài về học nha,cảm ơn các bạn đã luôn chú ý theo dõi.

0 responses on "Gõ tiếng Trung Sogou mỗi ngày trên máy tính bài 10"

Leave a Message

ChineMaster Cơ sở 1

Số 1 Ngõ 48 Tô Vĩnh Diện, Phường Khương Trung, Quận Thanh Xuân, Hà Nội. (Ngã Tư Sở – Royal City, Ngã tư của Trường Chinh, Nguyễn Trãi, Đường Láng, Phố Tây Sơn)

ChineMaster Cơ sở 2

Số 5 Thành Thái, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn).

ChineMaster Cơ sở 3

Phường Láng Hạ, Quận Đống Đa, Hà Nội.

ChineMaster Cơ sở 4

Ngõ 17 Khương Hạ, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân Hà Nội.

ChineMaster Cơ sở 5

Số 349 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.

ChineMaster Cơ sở 6

Số 72A Nguyễn Trãi, Phường Thượng Đình, Quận Thanh Xuân, Hà Nội. (Royal City)

ChineMaster Cơ sở 7

Số 168 Nguyễn Xiển, Phường Hạ Đình, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.

ChineMaster Cơ sở 8

Ngõ 250 Nguyễn Xiển, Phường Hạ Đình, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.

top